Nghiên Loan, Thái Nguyên siết chặt tuyên truyền phòng ngừa tảo hôn trong các thôn, bản người Mông

Tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống vẫn âm thầm diễn ra tại một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gây hệ lụy sâu rộng đến sức khỏe giống nòi và chất lượng dân số. Trước thực tế đó, chính quyền địa phương và các đoàn thể chính trị – xã hội đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tuyên truyền, vận động nhằm thay đổi nhận thức của người dân.

Hệ lụy đau lòng từ hôn nhân cận huyết thống

Gia đình chị Hoàng Thị Sua, người dân tộc Mông ở thôn Tân Hợi, xã Nghiên Loan, là một ví dụ điển hình về hậu quả của việc kết hôn cận huyết thống. Câu chuyện của chị là một minh chứng rõ nét cho những hệ quả đau lòng khi nhận thức về hôn nhân, sức khỏe sinh sản và chất lượng dân số còn hạn chế.

Chị Sua và chồng vốn là người trong cùng dòng họ — “con chị ruột và con em ruột”. Do thiếu hiểu biết, lại không được tiếp cận các thông tin tuyên truyền về luật hôn nhân và những rủi ro của kết hôn cận huyết, hai người đã tự nguyện đến với nhau.

Hệ quả là con trai đầu lòng, bé Lý Thanh Tân, sinh ra mang dị tật bẩm sinh, sức khỏe yếu, phát triển chậm hơn nhiều so với trẻ cùng trang lứa. Từ nhỏ, em đã không thể theo học như các bạn.

Nói trong nghẹn ngào, chị Sua chia sẻ: Vì thiếu hiểu biết và tập tục cũ nên tôi và chồng đã đến với nhau dù biết có quan hệ họ hàng gần. Khi sinh con ra, thấy con mang dị tật bẩm sinh, tôi mới thấm thía hậu quả của hôn nhân cận huyết.

Trường hợp của gia đình chị Sua không phải là cá biệt. Ở xã Nghiên Loan, nơi có hơn 90% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, là một trong những địa phương ghi nhận tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống phổ biến. Đặc biệt, vấn đề này chủ yếu xảy ra ở đồng bào dân tộc Mông. Nguyên nhân chính được xác định là do nhận thức hạn chế của người dân, ảnh hưởng từ phong tục tập quán lâu đời, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp và việc tiếp cận các dịch vụ tư vấn sức khỏe sinh sản còn hạn chế khiến rủi ro này chưa thể được kiểm soát triệt để. Chỉ riêng từ đầu năm đến nay, xã đã ghi nhận 3 trường hợp tảo hôn.

Nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Những chuyển biến rõ nét từ Dự án 7
Trưởng thôn Tân Hợi đến tuyên truyền về hệ lụy của tảo hôn và kết hôn cận huyết với người dân trong thôn. Ảnh internet

Theo ông Dương Văn Quỳnh, Chủ tịch UBND xã Nghiên Loan, nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng kết hôn cận huyết thống vẫn là vấn đề nhận thức: Bà con chưa lường hết được tác hại của hôn nhân cận huyết đối với sức khỏe thế hệ sau. Vì vậy, công tác tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và kiên trì, để người dân thực sự hiểu và thay đổi hành vi.

Không chỉ riêng Nghiên Loan, tình trạng này còn diễn ra tại nhiều địa phương khác trong tỉnh. Theo báo cáo của ngành chức năng, năm 2025 toàn tỉnh ghi nhận 25 trường hợp tảo hôn và 3 vụ kết hôn cận huyết thống. Đây là hồi chuông cảnh báo về những nguy cơ tác động trực tiếp đến chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của cộng đồng.

Trước thực trạng đó, các cơ quan chuyên môn, chính quyền các cấp và các tổ chức đoàn thể đã tập trung triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Trong giai đoạn 2021 – 2025, toàn tỉnh đã tổ chức 83 hội nghị truyền thông, thu hút hơn 8.800 đại biểu tham gia, gồm lãnh đạo địa phương, cán bộ làm công tác dân tộc, công an, cán bộ đoàn, trưởng xóm, bí thư chi bộ và lực lượng thanh, thiếu niên — nhóm đối tượng có nguy cơ cao rơi vào tảo hôn.

Nội dung tuyên truyền được lồng ghép phong phú: phân tích hậu quả y khoa của hôn nhân cận huyết; cung cấp kiến thức pháp luật; chia sẻ câu chuyện thực tế; chiếu phim tài liệu; đối thoại trực tiếp giữa người dân với cán bộ y tế, dân số, công an và già làng, trưởng bản. Nhiều mô hình “tổ tự quản”, “dòng họ không tảo hôn”, “câu lạc bộ cha mẹ” cũng được xây dựng tại các thôn, bản.

Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng công tác giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn còn nhiều thách thức. Bên cạnh yếu tố nhận thức, sự cách trở địa lý, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp và ảnh hưởng của phong tục tập quán vẫn là rào cản lớn.

Các cơ quan chức năng khẳng định, giải pháp quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền lâu dài, bền bỉ, phù hợp văn hóa từng dân tộc. Hoạt động hiện được duy trì thường xuyên tại các buổi họp thôn, sinh hoạt cộng đồng, trường học, đồng thời kết hợp với các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên.

Mục tiêu cao nhất mà các địa phương hướng tới là giúp người dân hiểu rõ nguy cơ, chủ động phòng ngừa, từ đó góp phần bảo vệ sức khỏe giống nòi, nâng cao chất lượng dân số và phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số./.

Minh Trang