Kết quả khảo nghiệm thiết bị xới đất và làm cỏ cho cây lạc

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn Anh, Nguyễn Văn Lành, Phạm Duy Lam, Nguyễn Nam Quyền, Nguyễn Thanh Nghị - 1Khoa Cơ khí – Công nghệ, Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM.

TÓM TẮT:

Với xu hướng đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp nói chung, hiện nay nhiều loại máy và thiết bị cũng đã và đang được ứng dụng trong các khâu canh tác đậu phộng từ khâu làm đất, gieo hạt, diệt cỏ, và thu hoạch. Trong đó, việc ứng dụng thiết bị xới đất, làm cỏ trong khâu làm cỏ thay vì dùng thuốc diệt cỏ đã không chỉ giảm thiểu chi phí công lao động mà còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường và hướng đến canh tác hữu cơ. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá hiệu quả ứng dụng dựa trên những số liệu và các thông số được đo đạc và tính toán qua việc khảo nghiệm máy làm việc trên đồng. Máy được liên hợp với máy kéo công suất 22 HP và làm việc với năng suất 0,9 ha/giờ, vận tốc 9,3 ± 0,4 km/giờ và và bề rộng làm việc thực tế 1,12 m. Hiệu suất làm cỏ đạt được 69 - 72% và độ sâu chăm sóc là 4 – 6 cm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc ứng ứng dụng thiết bị xới đất, làm cỏ trong khâu chăm sóc, đã mang lại hiệu quả giảm chi phí lao động (70%), và giảm chi phí thuốc diệt cỏ.

Từ khóa: máy cuốc quay, cơ giới hóa, chăm sóc đậu phộng, hiệu quả kinh tế

FIELD TEST RESULTS OF A TILLING AND WEEDING DEVICE FOR PEANUT CULTIVATION

ABSTRACT:

Together with the trend of promoting mechanization in agricultural production, various types of machines and equipment have been applied at different stages of peanut cultivation, including land preparation, sowing, crop cultivation, and harvesting. Among these, the use of rotary hoes for weeding instead of herbicides has not only reduced labor costs but also contributed to improved labor health and environmental protection, and the promotion of organic farming. This study was conducted to evaluate the effectiveness of mechanization based on measured data and calculated parameters obtained through the field tests. The rotary hoe was mounted on a 22 HP tractor and operated with a working capacity of 0.9 ha/h, a forward speed of 9.3 ± 0.4 km/h, and an actual working width of 1.12 meters. The weeding efficiency reached 69 – 72%, and the cultivation depth ranged from 4 to 6 cm. The results indicate that the application of rotary hoes in the crop cultivating stage effectively reduced labor costs  (by 70%) and herbicide expenses.

Keywords: rotary hoe, mechanization, peanut cultivating, economic efficiency

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đậu phộng (hay còn gọi là lạc) là cây công nghiệp ngắn ngày cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm như dầu và bơ đậu phộng. Không chỉ ở Việt Nam, đậu phộng cũng được trồng nhiều ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nigeria, Indonesia, hay Sudan. Do điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết và quy mô canh tác khác nhau nên năng suất ở mỗi vùng và quốc gia cũng có những biến động khác nhau [1]. Trên thực tế, đậu phộng được trồng ở nhiều loại đất khác nhau, với điều kiện tơi xốp, khô ráo và thoát nước nhanh để tia đậu phộng dễ đâm vào đất. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, một số nơi có điều kiện phù hợp cho canh tác đậu phộng như Trà Vinh, Tây Ninh, hay Long An, với thành phần cơ giới nhẹ, tơi xốp, thoát nước tốt, không ngập úng, và độ pH từ 5,7 đến 6,5.

Để đảm bảo năng suất và chất lượng, thì các khâu trong canh tác cần đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật nông học, mà trong đó khâu chăm sóc có ý nghĩa quan trọng và tiên quyết. Trong khâu làm đất, việc cày sâu, bừa kỹ làm cho đất tơi xốp sạch cỏ dại tạo điều kiện cho hệ rễ lạc phát triển và cây sinh trưởng tốt. Việc ứng dụng cơ giới hóa trong mô hình canh tác đậu phộng ở Tây Ninh đã mang lại một số hiệu quả như tăng năng suất từ 3,6 lên 4,2 tấn/ha và với mức giảm chi phí khâu gieo hạt 32,5%, khâu thu hoạch 20,5%, và khâu bức củ 25,9% [2]. Tuy nhiên, ở mô hình này, khâu chăm sóc như làm cỏ, bón phân và phun thuốc vẫn chưa được cơ giới mà vẫn còn thực hiện bằng phương pháp thủ công.

Trong khâu chăm sóc với lạc trồng không che phủ nilon thì cần xới đất làm 3 lần, lần 1 xới đất khi cây có 2-3 lá thật sau khi cây mọc 10-12 ngày, lần 2 xới đất làm cỏ khi cây có 6-7 lá thật, xới sâu 5-6cm làm đất tơi xốp cho sự phát triển tốt nhất cho lạc, xới đất làm cỏ lần 3 khi hoa rộ 7-10 ngày [3]

Kết quả xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hóa sản xuất lạc tại Tây Ninh năm 2017 cho thấy năng suất tăng từ 3,6 tấn/ha lên 4,2 tấn/ha, chi phí sản xuất được kéo giảm đáng kể. Nghiên cứu [2] cho thấy áp dụng cơ giới hóa vào các khâu gieo hạt (tạo lỗ + bỏ hạt + lấp đất) giảm 32,5 % chi phí, quá trình đào nhổ giảm 20,45% chi phí, quá trình bức củ giảm 25,92% chi phí. Với giá lạc 26.000 đồng, lợi nhậu của  mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hóa sản xuất lạc tại Tây Ninh 52,75 %. Tuy nhiên nghiên cứu này vẫn chưa áp dụng cơ giới hóa ở khâu chăm sóc cây đậu phộng. Với kết quả ứng dụng cuốc quay trong khâu chăm sóc làm cỏ đã mang lại hiệu quả cao [8], việc nghiên cứu ứng dụng và đánh giá hiệu quả làm việc của cuốc quay trong khâu chăm sóc đậu phộng mang tính cấp thiết không chỉ góp phẩm giảm chi phí nhân công lao động mà còn góp phần giảm thuốc trừ cỏ, hướng đến phục vụ trong quy trình canh tác hữu cơ và giảm phát thải.

 Trong quá trình chăm sóc cây đậu phộng, cỏ dại chủ yếu được kiểm soát bằng tay hoặc bằng máy. Việc loại bỏ cỏ dại được thực hiện vào khoảng 20-25 ngày sau ngày gieo hạt và sau đó lặp lại sau mỗi 12-15 ngày cho đến khi tán cây che phủ hoàn toàn. Một phương pháp hiệu quả  thường được sử dụng để quản lý cỏ dại trong vụ mùa giữa các hàng là làm cỏ bằng bằng máy cuốc quay [9].

2. THIẾT BỊ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thiết bị xới, làm cỏ liên hợp với máy kéo

Nghiên cứu được thực hiện với thiết bị xới, làm cỏ liên hợp với máy kéo công suất 22 HP (Hình 1). Bộ phận làm việc gồm 2 mảng trục lưỡi với bề rộng 1,2 m và đường kính 0,4 m (Hình 2 & 3), liên kết 3 điểm treo giúp cho cơ động hơn khi máy làm việc trên đồng ở vận tốc tiến lớn.

Hình 1. Liên hợp máy kéo và thiết bị xới, làm cỏ

Hình 2. Bộ phận làm việc cuốc quay

Hình 3. Bản vẽ cấu tạo bộ phận làm việ cuốc quay

2.2. Xác định các đặc tính của đất canh tác

Độ chặt: Độ chặt của đất là đại lượng ứng suất kháng nén sâu vào đất trên đơn vị diện tích, đơn vị là N/cm2. Độ chặt của đất được tính thức công thức sau [10]:

                                              (1)

Trong đó: C là độ chặt đất, N/cm2; F là lực nén vào đất, N; W là diện tích của mũi côn tiếp xúc, cm2.

Dụng cụ hình nón đo độ cứng đất bao gồm mũi đo hình nón (côn) và thanh đẩy, có hai cỡ A và B (Hình 3 & 4). Tùy vào các loại đất, với mũi A khả năng đo 2 MPa hoặc mũi B khả năng đo 5 Mpa, theo tiêu chuẩn ASAE Standards S313.3 [12].

Độ tơi xốp: Độ tơi xốp của đất là tỷ lệ (%) thể tích tổng các khe hở chiếm trong đất so với thể tích chung của đất. Độ tơi xốp của đất được thể hiện qua dung trọng của đất và được tính sau khi xác định được dung trọng của đất trước và sau khi chăm sóc. Từ đó, độ tơi xốp của đất được đánh giá đối với trước và sau khi chăm sóc.

Ẩm độ: Ẩm độ của đất (MCdb) được tính trên cơ sở khô, là tỷ số giữa khối lượng nước có trong đất và khối lượng của đất khô, được xác định bằng phương pháp tủ sấy. Mẫu đất được cân trước và sau khi sấy, nhiệt độ cài đặt trong tủ sấy là 105 0C với thời gian 24 giờ [11] và được tính theo công thức sau:

                             (2)

Trong đó: MCdb là độ ẩm của đất cơ sở khô, %; Mw là khối lượng nước có trong đất, g; Ms là  khối lượng đất khô sau khi sấy, g.

Hình 4. Mũi đo hình côn A

Hình 5. Mũi đo hình côn B

2.3. Đo đạc và xác định các thông số làm việc của máy

Năng suất làm việc lý thuyết: Được tính theo bề rộng làm việc và vận tốc tiến của máy, được tính công thức tính như sau [5]

Trong đó: Bct là bề rộng cắt theo cấu tạo của máy, m; Vlt là vận tốc lý thuyết của máy (theo tính toán thiết kế, km/h.

Năng suất làm việc thực tế: Là khối lượng công việc thực tế máy hoàn thành được trong khoảng thời gian nhất định, được xác định theo công thức sau:

Trong đó: Wlv là năng suất làm việc thực tế của máy, ha/giờ; Blv là bề rộng làm việc thực tế của máy khi đo đạc trên đồng, m; Vlv là vận tốc làm việc thực tế của máy, km/h; τ là hệ số sử dụng thời gian. Hệ số sử dụng bề rộng làm việc của máy nông nghiệp dao động trong khoảng 0,90 đến 0,95, tùy từng loại máy [6].

Hiệu suất làm việc của máy: Được xác định là tỷ số giữa năng suất làm việc thực tế và năng suất làm việc lý thuyết [7], [13]. Thông số này nói lên hiệu quả làm việc của máy và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như độ bền và tính ổn định của máy, điều kiện đồng ruộng, và mức độ vận hành của người lái máy.

Lượng nhiên liệu tiêu thụ: Được xác định bằng cách xác định mức nhiên liệu trong thùng dầu của máy kéo trước và sau khi máy hoàn thành một diện tích chăm sóc [7].

Độ sâu chăm sóc (độ sâu xới): Là độ sâu xới của lưỡi cuốc vào trong đất và được xác định sau khi chăm sóc và được đo bằng thước lá từ độ sâu lớp đất được làm tơi so với độ cao mặt đồng phần chưa được xới.  

Tỷ lệ hư hỏng: Tỷ lệ hư hỏng là chỉ số thể hiện số cây đậu phộng bị hư hỏng sau khi máy chăm sóc chạy qua. Tỷ lệ hư hỏng là số liệu quan trọng để đánh giá độ hoàn thiện và khả năng đưa vào thực tế của máy chăm sóc. Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số cây bị hư hại và tổng số cây được đến trên chiều dài đường chạy sau khi chăm sóc [14].

Hiệu suất làm cỏ: Là tỷ số giữa số cây cỏ mà máy đã làm được và tổng số cây cỏ được đếm trên cùng một hàng và cùng chiều dài luống chăm sóc.

2.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế

Từ những dữ liệu và thông số làm việc của máy được xác định trong quá trình khảo nghiệm, tính hiệu quả kinh tế của máy được đánh giá qua các chỉ tiêu gồm chi phí – lợi nhuận, thời gian hoàn vốn, điểm hòa vốn, và suất nội hoàn [6].

Chi phí – lợi nhuận (Cost-benefit): Được phân tích dựa trên dữ liệu về các khoản chi phí cố định, chi phí biến động, tổng thu được tính trên diện tích làm việc và lợi nhuận hàng năm sau khi trừ các khoản chi. Chi phí khấu hao máy được tính với chi phi đầu tư gồm máy kéo và bộ phận cuốc quay. Tuy nhiên, để tính riêng cho khâu chăm sóc, chi phí này được ước tính theo tỷ lệ (20%) thời gian máy phục vụ trong các khâu canh tác khác như làm đất và thu hoạch.

Bảng 1. Dữ liệu đầu vào để phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế

Stt

Dữ liệu

Đơn vị

Giá trị

1

Chi phí đầu tư máy kéo 25 HP (giá máy kéo đã qua sử dụng để giảm chi phí đầu tư ban đầu)

đồng

80.000.000

2

Giá thành bộ phận chăm sóc (tính cho giá thành máy khi được cung cấp ra thị trường)

đồng

20.000.000

3

Thời gian khấu hao máy (ước tính theo một số loại máy nông nghiệp khác)

năm

5

4

Năng suất làm việc (số liệu khảo nghiệm thực tế)

ha/giờ

0,9

3

Giá thuê nhân công lao động và lái máy (theo giá tại địa phương nơi khảo nghiệm)

đồng/ngày

500.000

4

Giá nhiên liệu

đồng/lít

18.000

5

Mức tiêu thụ nhiên liệu (đo đạc trong quá trình khảo nghiệm liên hợp máy)

lít/giờ

1,2

Thời gian hoàn vốn (pay-back period): Là khoảng thời gian cần thiết để thu hồi toàn bộ số tiền đã đầu tư ban đầu vào liên hợp máy, thông qua lợi nhuận thu được mỗi năm. Chỉ số này được tính là tỷ số giữa tổng đầu tư máy và lợi nhuận hàng năm. Thời gian hoàn vốn càng ngắn thì tính khả thi của dự án càng cao, đồng thời cho thấy máy mang lại hiệu quả kinh tế tốt trong thời gian ngắn.

Điểm hòa vốn (break-even point): Là mức diện tích (tính theo ha) mà thiết bị cần phải làm việc trong năm để đạt được doanh thu bằng đúng chi phí đầu tư ban đầu, tức là chưa sinh lời nhưng cũng không bị lỗ. Sau điểm này, mọi hoạt động tiếp theo đều mang lại lợi nhuận. Chỉ số này giúp xác định quy mô sử dụng tối thiểu để đảm bảo hiệu quả đầu tư và được tính theo công thức sau [13]:

Trong đó: B là điểm hòa vốn, ha/year; Fc là chi phí cố định đối với máy, đ/year; Va là chi phí biến động đối với phương pháp thủ công, đ/ha; Vm là chi phí biến động đối với sử dụng máy, đ/ha.

Suất nội hoàn (Internal Rate of Return): Là mức lãi suất mà trong một thời gian dự kiến nhất định (thường là đời của thiết bị), dùng để đánh giá sơ bộ dự án đầu tư này có hiệu quả hay không. Nếu giá trị IRR càng cao thì tỷ lệ hoàn vốn của dự án càng lớn ngược lại nếu IRR thấp hơn giá trị chiết khấu thì khả năng thu hồi vốn của dự án giảm và dự án trở nên khó sinh lời. IRR là nghiệm (r) từ giải phương trình (4) như sau [6]:

Trong đó: NPV là giá trị hiện tại (Net present value); C0 là đầu tư ban đầu (trị số âm ‘-‘); Ln là thu lợi năm thứ n, với n = 1,2,3...N, tính đến cuối năm.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Đặc điểm ruộng khảo nghiệm và cây trồng

Độ chặt và khối lượng thể tích của đất: Độ chặt của đất ảnh hưởng đến khả năng ăn sâu của các bộ phận làm việc của máy canh tác, cụ thể là lưỡi cuốc trong nghiên cứu này. Độ chặt đất thay đổi theo độ sâu và thành phần của đất. Ở độ sâu từ 2 – 16 cm độ chặt đất sau chăm sóc dao động từ khoảng 30,2 đến 228,9 N/cm2 (Hình 5). Sự giảm độ chặt của đất sau khi máy cuốc quay làm việc từ 29 đến 33% ứng với độ sâu canh tác.

Khối lượng thể tích của đất là đại lượng ảnh hưởng đến độ chặt của đất. Đất có khối lượng thể tích càng lớn thì độ chặt sẽ càng lớn, điều này tác động đến quá trình làm tơi vỡ đất. Sau quá trình chăm sóc, khối lượng riêng của đất sẽ giảm so với ban đầu vì đã được làm tơi xốp. Khối lượng thể tích của đất thay đổi theo độ sâu của các lớp đất, có giá trị từ 1.148 – 1.771 kg/m3, tương ứng với kết quả nghiên cứu khác [15]. Khối lượng thể tích của lớp đất tăng dần theo độ sâu của lớp đất (Hình 6). Sau khi chăm sóc khối lượng thể tích của đất giảm ở các độ sâu chăm sóc điều này thể hiện đất được xới tơi xốp, tạo điều kiện cho sự phát triển của rễ đậu phộng và hình thành hạt đậu phộng, tuy nhiên cần quan tâm đến việc tưới nước đo đất tới xốp dễ thoát ẩm.

Hình 6. Độ chặt của đất

Hình 7. Khối lượng riêng của đất

Độ ẩm của đất: Tại thời điểm tiến hành lấy mẫu để đo độ ẩm thì thời tiết nắng nóng và đất thuộc loại cát pha do đó độ ẩm của đất tương đối thấp. Độ ẩm của đất thay đổi theo độ sâu của các lớp đất do các thành phần khác nhau của nó. Ở độ sâu 5 – 10 cm có độ ẩm cao hơn so các lớp đất khác. Với độ sâu từ 0 – 5 cm đất có độ ẩm 6,9 – 7,6%, độ sâu từ 5 – 10 cm đất có độ ẩm  8,4 – 12,1% và độ sâu từ 10 – 15 cm độ ẩm của đất từ 9,0 – 10,9%

Độ tơi xốp đất: Dựa vào sự thay đổi khối lượng riêng của đất, độ tơi xốp được xác định trước và sau quá trình chăm sóc. Độ tơi xốp của đất ở các độ sâu 5, 10 và 15 cm tương ứng là 6,35 %, 3,25%, và 1,72%. Lớp đất bề mặt có độ tơi xốp cao do nằm trong độ sâu làm việc của máy chăm sóc cuốc quay.

Đặc điểm cây đậu phộng ở giai đoạn chăm sóc: Đậu phộng được gieo thàng từng líp, trên mỗi líp gồm 3 hàng, khoảng cách giữa các hàng từ 25 – 30 cm. Trên mỗi hàng, hạt được gieo thành từng cụm, mỗi cụm từ 2 – 3 hạt, khoảng cách giữa các cụm từ 25 – 30 cm. Theo quy trình canh tác lạc tại Việt Nam, việc xới đất và làm cỏ thường được thực hiện nhiều lần trong chu kỳ sinh trưởng của cây. Lần xới đất đầu tiên thường diễn ra khi cây có từ 2-3 lá thật, kết hợp với bón thúc và làm cỏ để phá váng, tạo độ thoáng dưới gốc và điều kiện cho cành cấp 1 phát triển tốt. Lần xới đất thứ hai thường được tiến hành khi cây có từ 7-8 lá thật, trước khi cây ra hoa, với độ sâu xới khoảng 5-6 cm, sát gốc nhưng không vun gốc. Trên thực tế trong điều kiện thử nghiệm, quá trình chăm sóc và lấy số liệu khảo nghiệm được thực hiện sau khi gieo hạt 10 ngày, với cây có chiều cao từ 4 – 6 cm.

Độ sâu và độ tơi xốp sau chăm sóc: Với điểm đặc trưng của cuốc quay là làm việc hiệu quả với vận tốc tiến 9,34 km/h, cao hơn so với một số loại máy canh tác phổ biến khác. Sau khi chăm sóc với cuốc quay, cỏ được nhổ phơi trên mặt đồng và lớp đất mặt được xới làm tơi xốp hơn (Hình 7 & 8). Ngoài ra,  thiết bị xới, làm cỏ có thể làm việc ở vận tốc tiến lớn hơn đến 15 km/h và cũng với độ sâu chăm sóc 4 – 5 cm [16].

Hình 8. Mặt đồng và cỏ trước chăm sóc

Hình 9. Mặt đồng và cỏ sau chăm sóc

Lớp đất được làm tơi xốp trên bề mặt với độ sâu 4 - 6 cm (Bảng 2), phá váng (làm tơi xốp đất mặt) và diệt cỏ, đáp ứng yêu cầu kỹ thuạt nông học cho việc xới lần 1 và lần 2 trong quy trình canh tác [7]. Độ tơi xốp được đánh giá qua khối lượng thể tích của đất đã giảm từ 1.227 kg/m3 xuống còn 1.149 kg/m3 sau khi chăm sóc, tương ứng với 6,35% ở độ sâu chăm sóc là 5 cm.

Bảng 2. Độ sâu chăm sóc, cm

Vị trí

Lần 1

Lần 2

Lần 3

Lần 4

Lần 5

Trung bình

1

4.0

4.5

5.0

5.1

4.9

4.7

1

4.3

5.0

4.1

4.0

5.0

4.9

3

5.0

4.8

5.0

5.2

4.8

5.0

4

5.2

5.4

5.0

5.2

4

5.0

5

5.0

4.6

4.6

4.4

5.4

4.8

3.2. Kết quả khảo nghiệm liên hợp máy

Năng suất: Liên hợp máy được xác định làm việc với năng suất 0,9 ha/giờ, ứng với vận tốc làm việc thực tế của máy là 9,3 km/h. So với năng suất lý thuyết, liên hợp máy đạt hiệu suất làm việc là 80% vì trên thực tế ngoài thời gian làm việc thuần túy còn có thời gian cho các công việc khác như thời gian quay đầu bờ, máy chạy không và tiếp nhiên liệu.

Có thể nhận thấy vận tốc làm việc thực tế của liên hợp máy có giá trị khoảng 80% so với vận tốc lý thuyết. Vì trên thực tế, thời gian liên hợp máy làm việc được tính bao gồm cả thời gian quay đầu bờ.

Tỷ lệ hư hỏng: Khi làm việc, các đĩa cuốc lăn trên mặt đồng và có khả năng lướt qua cây đậu phộng nên sẽ giảm khả năng làm hư hỏng cây. Kết quả cho thấy tỷ lệ cây bị hư hại do máy chăm sóc gây ra nhỏ hơn 1% (Bảng 3). Đa phần các cây bị hư hại là cây có rễ chưa ăn sâu xuống đất nên dễ bị bật gốc. Tỷ lệ hư hỏng phụ thuộc vào độ sâu chăm sóc, vận tốc làm việc của liên hợp máy và trình độ vận hành của người lái máy.

Bảng 3. Tỷ lệ hư hỏng trong quá trình chăm sóc.

Vị trí

Số cây hư hỏng

Tổng số cây /5m chiều dài luống (cây)

Tỷ lệ hư hỏng (%)

1

0

124

0%

2

1

127

0.79%

3

1

132

0.76%

3.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế

Hiện tại, việc chăm sóc đậu phộng gồm xới đất và làm cỏ đang được thực hiện bằng thủ công và cần với số lượng lớn nhân công lao động, từ 40 đến 50 ngày công/ha. Với giá thuê lao động từ 400.000 đến 500.000 đ/ngày, chi phí cho khâu này cao, từ 22 đến 26 triệu đồng/ha. Trong khi đó, từ kết quả khảo nghiệm máy trên đồng đậu phộng của Công ty Đạt Butter (Củ Chi, Tp.HCM), việc áp dụng cơ giới hóa khâu chăm sóc với cuốc quay đạt hiệu suất làm cỏ 70%, với mức chi phí thấp 4 – 5 triệu đồng/ha, đã giảm đáng kể so với thủ công. Tuy nhiên do đặc thù của cuốc quay không loại bỏ được triệt để các loại cỏ dại cho nên cần kết hợp với việc làm thủ công với phần cỏ còn lại (10 – 12 ngày công/ha), mức chi phí này từ 2 – 3 triệu đồng/ha. Vậy tổng chi phí cho khâu chăm sóc này đã giảm từ 69 đến 72% khi ứng dụng thiết bị xới, làm cỏ so với thủ công. Với tổng đầu tư 100 triệu đồng (gồm máy kéo và bộ phận cuốc quay), điểm hòa vốn là 15 ha/năm và thời gian hoàn vốn là 2 năm.

4. KẾT LUẬN

Việc ứng dụng cuốc quay trong khâu chăm sóc đậu phộng (làm cỏ, xới đất) đã góp phần giảm nhân công lao động và giảm chi phí sản xuất. Với việc làm cỏ bằng cơ giới thay cho việc dùng thuốc diệt cỏ không chỉ giảm chi phí mà còn giảm sự ảnh hưởng của thuốc đến sức khỏe người nông dân và môi trường. Máy được thiết kế và vận hành đơn giản nên có giá thành thấp, có khả năng làm việc ổn định và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật nông học trong canh tác đậu phộng, đặc biệt phù hợp với xu hướng canh tác hữu cơ.

Lời cám ơn: Nhóm tác giả xin chân thành cám ơn Công ty Đạt Butter đã hỗ trợ và tạo điều kiện để nhóm nghiên cứu thực hiện khảo nghiệm máy trên đồng trồng đậu phộng tại công ty.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Văn Chương, Trần Văn Sỹ, Võ Như Cầm Trần Hữu Yết, Nguyễn Văn Long, Phạm Văn Ngọc và Bùi Chí Bửu. 2015. Cây đậu đỗ ở các tỉnh phía Nam - Thực trạng và định hướng phát triển. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam.

[2] Ngô Minh Dũng. 2019. Mô hình thâm canh tổng hợp áp dụng cơ giới hóa sản xuất lạc tại Tây Ninh. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(109).

[3] Trần Danh Sửu, Nguyễn Thị Chinh, Phạm Thị Xuân, Trần Thị Ánh Nguyệt.2017. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây lạc, GPXB: 30A/GP-CXBIPH, Cục Xuất bản, ISBN: 978-604-9803-07-9.

[4] Võ Văn Thưa và Đặng Hữu Dũng, 1998. Giáo trình Sử dụng máy trong nông nghiệp. Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.

[5] Đoàn Văn Điện và Nguyễn Bảng, 1987. Lý thuyết và tính toán máy nông nghiệp. Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.

[6] Phan Hiếu Hiền. 2015. Năng lượng trong nông nghiệp, pp 85-104. NXB Nông Nghiệp.

[7] Nguyễn Ích Tân, Nguyễn Xuân Mai và Nguyễn Tất Cảnh, 2010. Giáo trình Cây trồng đại cương. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. NXB Nông nghiệp.

[8] David Weisberger, Margaret Smit, Mary Wiedenhoe. 2016. Evaluation of rotary hoe for mechanical weed control in organic oats. Journal Iowa Organic Association.

[9] Jat, R. S., Meena, H. N., Singh, A. L., Surya, J. N., & Misra, J. B. (2011). Weed management in groundnut (Arachis hypogaea L.) in India: A review. Agricultural Reviews, 32(3).

[10] Herrick, J. E., and T. L. Jones. 2002. A dynamic cone penetrometer for measuring soil penetration resistance. Soil Science Society of America Journal, 66:1320–1324.

[11] Usaborisut, P., W. Sukcharoenvipharat, S. Choedkiatphon. 2020. Tilling tests of rotary tiller and power harrow after subsoiling. Journal of the Saudi Society of Agricultural Sciences 19, 391–400.

[12] ASAE Standards S313.3. 2004. Soil cone penetrometer.

[13] Rao, J. H. and B. S. Meena. 2019. Performance and Cost Economics Evaluation of Different Types of Reaper Binder for Harvesting of Wheat in Satna District of Madhya Pradesh, India. International Journal of Current Microbiology and Applied Sciences, Volume 8, Number 10.

[14] ASAE EP496.2 DEC99. 2000. Agricultural Machinery Management.

[15] Tafa, W., D. Woyessa, A. Tsegaye. 2022. Performance evaluation of reaper-binder for wheat. American Journal of Agricultural Science, Engineering, and Technology, Volume 6, Issue 2.

[16] Leblanc, M. L., D. C. Cloutier, and K. A. Stewart. 2006. Rotary Hoe Cultivation in Sweet Corn. Journal of HortTechnology. 

Ngày nhận bài: 18/7/2025